Gia đình Lê_Thần_Tông

Cha mẹ

Cung phi, hôn phối

Ngoài bà vợ đầu tiên là Trịnh Thị Ngọc Trúc, vua Lê Thần Tông có 5 phi tần nữa và điều kỳ lạ là mỗi bà thuộc một dân tộc: vợ thứ hai là người Thái, vợ thứ ba là người Mường, vợ thứ tư là người Hán, vợ thứ năm người Lào và vợ thứ sáu là người Hà Lan.

Hoàng hậu

Tháng 5 năm Canh Ngọ (1630), chúa Trịnh Tráng ép vua Lê Thần Tông phải lấy con gái của mình là Trịnh Thị Ngọc Trúc để tấn phong làm hoàng hậu. Năm ấy vua Lê Thần Tông mới 23 tuổi còn bà Ngọc Trúc đã ở tuổi 36.[7]

Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc ở ngôi vị quốc mẫu không được bao lâu, bà đã mang theo con gái Ngọc Duyên (con của bà và Lê Trụ) rời cung, tu hành tại chùa Bút Tháp ở phía tây thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.[4] (Linh mục Alexandre de Rhodes từng viết về bà Ngọc Trúc với rất nhiều lời ngợi khen: "Bà rất thông chữ Hán, giỏi về thơ, chúng tôi gọi bà là Ca-tê-ri-na vì bà giống Thánh nữ về nhiệt tâm cũng như đạo hạnh, về những đức tính tinh thần cũng như sang trọng về dòng họ".[4])

Hậu phi

  • Phạm Thị Ngọc Hậu, sau được phong làm Đoan Thuần Hoàng thái hậu và là mẹ vua Lê Huyền Tông.

Bà quê ở làng Quả Nhuệ, huyện Lôi Dương (nay là huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa), nhưng cũng có sách chép bà là người làng Kim Bảng, xã Nam Giang (nay là thôn Kim Bảng, xã Nam Giang, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa).[8] Ông Phạm Đình Kiên ở phủ Thiệu Thiên lên sống ở làng Quả Nhuệ huyện Lôi Dương, tức là làng Kim Bảng (bản đồ Thanh Hóa chỉ viết là làng "Kim" xã Nam Giang, huyện Thọ Xuân ngày nay). Ông Kiên lấy bà Chu Thị Loan người xã Thanh Nga, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên sinh ra hai con gái là Ngọc Hiền, Ngọc Hậu. Khi chị em Phạm Thị Ngọc Hậu, Phạm Thị Ngọc Hiền mới hơn 10 tuổi thì cha lâm bệnh qua đời, có một thầy địa lý từng chịu ơn giúp đỡ của gia đình họ Phạm nghe tin tìm đến viếng và xin tìm một nơi đất tốt để táng ân nhân, coi đó như sự trả ơn đền nghĩa. Ngôi đất đó được coi là phúc địa, thầy địa lý tiên đoán đó là thế đất nhất giá công hầu, nhất giá vương (nghĩa là: Một người lấy công hầu, một người lấy vua). Nhiều người không hiểu cho đó là chuyện tầm phào, ông thầy địa lý không tranh luận mà chỉ cười rồi ra đi.

Năm 18 tuổi bà là một thiếu nữ xinh đẹp, đức hạnh đủ đầy. Năm 19 tuổi, bà theo người thân ra kinh đô Thăng Long chơi, đó cũng là lúc Lê Thần Tông đang ở ngôi lần thứ nhất (1619-1643), ông nằm mộng thấy một người con gái xinh đẹp từ phía nam đi đến, tự xưng là có duyên phận từ tiền kiếp. Giấc mộng đó lặp lại nhiều lần khiến Thần Tông lấy kinh ngạc. Ông mô tả lại dung nhan người trong mộng, sai họa quan trong triều vẽ thành tranh rồi cho người đi tìm kiếm. Đúng lúc các đại thần đang tìm thì họ bất ngờ gặp một cô gái giống hệt trong tranh đang đi dạo ở kinh đô. Vua liền cho người đưa cô gái vào cung hỏi chuyện thì được biết cô tên là Phạm Thị Ngọc Hậu, người xứ Thanh. Tin là ứng vào giấc mộng, Lê Thần Tông liền tuyển cô gái làm cung phi và rất sủng ái.[7] Bà chị là Ngọc Hiền lấy được công hầu là ông Tiến sĩ họ Lê người thôn Trường Sơn, xã Quan Trung, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; làm quan tới chức Đặc tiến kim tử Vinh lộc Đại phu Tá lý công thần Hình bộ Thượng thư, tước Phương Quế hầu.

Năm Giáp Ngọ (1654), cung phi Phạm Thị Ngọc Hậu hạ sinh một hoàng tử, được đặt tên là Lê Duy Vũ, đây là người con trai thứ hai của vua Lê Thần Tông.

Tháng 9 năm Nhâm Dần (1662), Lê Duy Vũ được lập làm Thái tử và đến tháng 11 cùng năm sau khi Lê Thần Tông qua đời, Thái tử khi đó mới lên 9 tuổi được lập làm vua, sử gọi là Lê Huyền Tông.

Con được kế vị ngai vàng, bà Phạm Thị Ngọc Hậu được tôn là Hoàng thái hậu, thế nhưng Lê Huyền Tông làm vua cũng chỉ được 8 năm (1662-1670) thì mất, thọ 17 tuổi. Thái hậu rất đau buồn, từ đó bà chuyên tâm tìm hiểu Phật giáo và lo làm từ thiện, giúp đỡ dân chúng cho đến khi mất.

  • Nguyễn Thị Ngọc Bạch, Minh Thục Hoàng thái hậu và là mẹ vua Lê Chân Tông.

Bà quê ở xã Hoàng Đan, Sơn Nam Hạ (nay là xã Yên Hưng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).[9] Một lần, vua ngự thuyền rồng xuôi dòng sông Đáy, khi qua một dải đất có hình dáng lạ kỳ ở xã Hoàng Đan, xứ Sơn Nam Hạ (nay là xã Yên Hưng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định), vua truyền cho dừng thuyền lại để hỏi thăm và người dân ở đây cho biết, nơi họ sinh sống có tên gọi là xóm Thoi. Bởi vì dải đất ấy có hình như một cái thoi dệt vải. Khi ấy, nhà vua bỗng nghe thấy tiếng hát trong trẻo, thánh thót từ xa vang đến, đưa tầm mắt tìm kiếm, Lê Thần Tông rất ngạc nhiên thấy một cô gái không giống như mọi người đến lạy phục ra mắt hoàng đế mà lại điềm nhiên như không, bàn tay thoăn thoắt dùng liềm cắt cỏ bên bờ sông, vừa làm vừa hát. Điều đặc biệt là trên đầu cô gái lơ lửng một đám mây xanh có hình như chiếc lọng. Cho đó là chuyện khác thường, nên vua Lê Thần Tông truyền gọi cô gái cắt cỏ đến, tuy là con gái thôn quê nhưng cô gái dung nhan diễm lệ, cử chỉ nhẹ nhàng, tự tin không hề e ngại, ứng đáp lại thông minh, trôi chảy khiến vua rất mến bèn cho rước lên thuyền rồng, đưa về cung làm phi.

Sau dịp quen tình cờ với bà, Lê Thần Tông lập bà làm Quý phi, truyền chỉ đổi tên quê bà từ tên xóm Thoi thành thôn Thanh Vân (Mây Xanh) để kỷ niệm mối duyên tình cờ của mình.[10] Mùa hạ tháng 5 năm Nhâm Tuất (1682), triều đình truy tôn Quý phi Nguyễn Thị Ngọc Bạch làm Minh Thục Hoàng thái hậu. Năm Giáp Tý (1684), vua Lê Hy Tông dâng thêm tôn hiệu cho bà là Minh Thục, Trinh Tĩnh, Thuần Hòa Hoàng thái hậu, sau đó sai người xây dựng điện Hoàng Long ở thôn Thanh Vân để thờ phụng, người dân đến nay vẫn quen gọi là đền bà Hoàng Thái hậu.[11]

  • Chiêu nghi Lê Thị Ngọc Hoàn, mẹ vua Lê Gia Tông. Bà vốn là người Thanh Hóa lại có tư dung xinh đẹp nên sớm được vào hầu vua. Sau khi hạ sinh Hoàng tử Lê Duy Cối không lâu, bà qua đời. Tây Vương Trịnh Tạc và Quốc Thái mẫu Trịnh Thị Ngọc Lung đưa vua về vương phủ chăm lo, dạy bảo cho nên đức tính. Sau này được lập làm vua, Lê Gia Tông tôn bà làm Chiêu nghi.
  • Nguyễn Thị Ngọc Tấn, mẹ vua Lê Hy Tông. Bà là người làng Đông Côi, xã Gia Đông, phủ Thuận Thành, xứ Kinh Bắc (nay là thôn Đông Côi, xã Gia Đông, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Bà tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Trúc,[12] tương truyền bà là một cô gái rất xinh đẹp, nên khi Thần Tông vừa tuần du đến đây liền cho vời gọi bà đến gặp mặt. Khi trông thấy bà, nhà vua liền ưng ngay và đón vào cung làm phi.

Năm Nhâm Dần (1662), cung phi Ngọc Tấn mang thai trong niềm vui của nhiều người. Ai cũng hy vọng vua sẽ có thêm một hoàng tử nữa vì khi đó trong cung chỉ có hai hoàng tử, một người lên 9 và một người mới tròn 2 tuổi. Không may, đến tháng 11 năm đó, Lê Thần Tông ốm nặng, biết khó qua khỏi ông mới truyền chúa Trịnh Tạc vào nội điện mà dặn rằng: Cung nhân Ngọc Tấn có thai mới được khoảng bốn tháng, chưa rõ là con trai hay con gái, sau này nó ra đời, nhờ vương trông nom giúp cho!

Sau khi Lê Thần Tông mất, dù đang mang thai nhưng bà vẫn xin được trở về quê để chịu tang vua. Bà quay lại nếp sống nghèo xưa. Ngày 15 tháng 3 năm Quý Mão (1663), bà sinh một người con trai, đặt tên là Cáp.[13] Năm Cáp 13 tuổi, Lê Duy Khoái lên ngôi vua (tức vua Lê Gia Tông) nhưng chỉ ở ngai vàng được 4 năm thì mất. Bà Ngọc Tấn theo đề nghị của triều đình cho con trai về kinh làm vua còn mình ở lại quê hương cho đến khi mất vào ngày 17 tháng 4 (không rõ năm).

Lê Hy Tông đã làm lễ tang cho bà trọng thể và lập đền thờ tại Đông Côi. Hàng năm vào ngày 17 tháng 4 tổ chức cúng giỗ.

* Tiệp dư Đặng Thị

  • Nguyễn Thị Nhậm.
  • Nguyễn Thị Sinh.
  • Nguyễn Thị Vĩ.
  • Trần Thị Lãng.[7]

Điều đặc biệt, ngoài số phi tần người Việt, để phục vụ mục đích chính trị và giao thương quốc tế, vua Lê Thần Tông còn lấy một số phụ nữ nước ngoài làm vợ mà theo dã sử và tài liệu phương Tây thì những người này có vị thế cao hơn các phi tần người Việt, họ chỉ xếp sau hoàng hậu mà thôi.[1]

Trong số 6 người vợ có thứ bậc cao trong cung, ngoài Hoàng hậu Ngọc Trúc và bà phi người Mường thì những người còn lại là các phi tần người Xiêm (Thái Lan ngày nay), Hán (Trung Quốc), Ai Lao (Lào ngày nay) và Hòa Lan (tức Hà Lan).[14][15]

Người vợ Hà Lan của vua là con gái của Phó Toàn quyền Hà Lan tại Đài Loan. Năm 1630, trong chuyến thương đoàn Hà Lan sang Việt Nam vào, bà Orona được gặp vua Lê Thần Tông ở Thăng Long. Nghe theo lời của bố, bà ở lại Việt Nam làm vương phi của vua Thần Tông.[16]

Các con

Với 4 người con thay nhau làm vua, Lê Thần Tông cùng với Trần Minh Tông là 2 vị vua có nhiều con làm vua nhất trong lịch sử Việt Nam. Trừ người con út Lê Hy Tông, 3 người con trước đều yểu mệnh.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lê_Thần_Tông http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvs... http://www.trieuxuan.info/?pg=tpdetail&id=8742&cat... http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/chuyen-it-bie... http://antg.cand.com.vn/Kinh-te-Van-hoa-The-Thao/a... http://www.honvietquochoc.com.vn/bai-viet/2603-chu... http://m.ngoisao.vn/theo-dong-su-kien/ho-so-tu-lie... http://www.hannom.org.vn http://phunutoday.vn/blog-nguoi-noi-tieng/nguoi-no... http://phunutoday.vn/blog-nguoi-noi-tieng/tham-cun... https://archive.is/r05ck